U tuyến mồ hôi ở mặt là bệnh hiếm gặp. Hiện nay, bệnh học của bệnh lí này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, dẫn tới thách thức lớn trong việc chẩn đoán và gây nhiều khó khăn trong điều trị.
Mục lục
Căn nguyên của bệnh U tuyến mồ hôi ở mặt và khả năng di căn
Đến nay, y học thế giới vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân trực tiếp gây U tuyến mồ hôi ở mặt.
Qua nhiều nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy, bệnh có liên quan đến tia cực tím (UV), khi tia này tiếp xúc với phần da gây ra hiện tượng suy giảm miễn dịch của da nơi tiếp xúc. Bức xạ tia cực tím giữ vai trò trong cơ chế sinh bệnh, điều này giải thích tại sao tỷ lệ bệnh lại thấp ở người da sẫm màu. Ngoài ra, người ta thấy các loại thuốc điều trị khớp và kháng viêm sử dụng dài ngày cũng có vai trò trong việc gia tăng tỷ lệ loại u này.
U tuyến mồ hôi ở mặt xuất phát từ những cấu trúc phần phụ của da, ban đầu là những nốt nhỏ, diễn tiến rất chậm trong thời gian dài rồi đột ngột gia tăng kích thước. Không có hình ảnh đặc trưng nào giúp xác định chẩn đoán, chỉ đến khi các khối u trên cơ thể bệnh nhân có hiện tượng chảy máu, tiết dịch thì triệu chứng mới rõ ràng. Vì vậy, khi nhận thấy trên da xuất hiện những u nhỏ, hoặc có thay đổi bất thường nào đó, người bệnh nên đến khám tại các trung tâm chuyên khoa ung bướu để được chẩn đoán kịp thời.
Một đặc trưng nữa, U tuyến mồ hôi ở mặt là loại ung thư di căn rất nhanh đến hạch bạch huyết, do vậy ngoài tổn thương nguyên phát, các tổn thương hạch vùng nách, hạch cổ là những triệu chứng chính khiến người bệnh tìm đến khám và điều trị. Những khối hạch thường tròn, cứng, có thể rời rạc hoặc dính chùm với nhau. Các hạch này thường không gây đau đớn. Gan, phổi hay xương là những vị trí thường bị di căn nhiều nhất. Để chẩn đoán, bác sĩ dùng các phương tiện hình ảnh như siêu âm, Xquang phổi tìm những tổn thương di căn. Phương pháp chọc hút tế bào từ mô bướu hay hạch hoặc mổ lấy mẫu sinh thiết cũng mang lại kết quả mô học chắc chắn.
U tuyến mồ hôi ở mặt tái phát cao sau phẫu thuật
U tuyến mồ hôi ở mặt thường không nhạy với xạ trị, hóa trị cũng ít có vai trò trong điều trị. Vì vậy, phẫu thuật là phương pháp được xem là hiệu quả hơn cả, nhất là khi bệnh còn khu trú tại chỗ hoặc chưa có di căn. Bệnh nhân cần được phẫu thuật cắt bỏ bướu nguyên phát, kèm theo là nạo vét sạch các hạch di căn. Nạo vét hạch phòng ngừa được chỉ định cho những trường hợp bướu tái phát hay kết quả mô học thuộc loại biệt hóa kém.
Diễn tiến của bệnh là phá hủy cấu trúc tại chỗ dữ dội và khả năng tái phát cao: tỷ lệ tái phát sau cắt rộng tại chỗ từ 47 – 59%. Do vậy, sau phẫu thuật bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và đều đặn nhằm phát hiện sự tái phát hoặc sự xuất hiện một ung thư da khác. Khi bướu tái phát, dẫu chưa sờ thấy hạch, bệnh nhân vẫn được chỉ định nạo hạch phòng ngừa vì những trường hợp này thường có nguy cơ di căn rất cao. Để tiên lượng diễn tiến bệnh, thông thường bác sĩ sẽ dựa vào các yếu tố liên quan như kích thước bướu, loại mô học, tình trạng di căn hạch hoặc di căn xa, song thực tế điều này cũng rất khó. Nếu chưa có hạch di căn, khoảng 56% bệnh nhân sẽ sống được thêm 10 năm (chưa gây bệnh cho các cơ quan khác). Nếu bệnh đã di căn hạch hoặc di căn xa đến các cơ quan khác trong cơ thể, tỷ lệ này chỉ còn 9%.
Lời khuyên của thầy thuốc cho những bệnh nhân bị U tuyến mồ hôi ở mặt
Để phòng bệnh U tuyến mồ hôi trên mặt, mọi người cần tập thói quen sống và làm việc điều độ, rèn luyện sức khỏe thường xuyên, hạn chế các thức uống có cồn. Cần tránh các yếu tố gây viêm nhiễm cho da, khi ra đường nên bảo vệ cơ thể bằng khẩu trang, không mặc đồ quá hở, mặc quần áo sáng màu giúp giảm hấp thụ bức xạ, hạn chế đi dưới ánh nắng từ khoảng 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Trong ăn uống, chọn nhiều rau quả, vitamin, bổ sung đủ nước hàng ngày.
Khi thấy có những bất thường trên da thì cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để việc điều trị bệnh đạt hiệu quả.